Ads

10 cặp từ rất dễ dùng sai, 10 người thì có đến 9 người bị nhầm lẫn và viết không chính xác

“ Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”, không chỉ có ngữ pháp mà cả hệ thống từ vựng Việt Nam cũng muôn màu muôn vẻ. Chính vì thế đã có không ít người Việt hay bị nhầm lẫn giữa một số từ được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày. Dùng thường xuyên và “vô tình” biến những cách sử dụng từ sai thành thói quen khó bỏ được, đó là cách người Việt Nam vẫn đang dùng hiện nay.

Hãy cùng xem đó những từ, cặp từ gì và cùng kiểm chứng để xem bạn có hay dùng nhầm không nhé!

1. Chia xẻ hay chia sẻ

Nhiều bạn sẽ quả quyết “chia sẻ” mới là từ đúng bởi ít khi nhìn thấy ai dùng từ “chia xẻ” cả. Thật ra, hai từ này đều được sử dụng (đều đúng), mặc dù nghĩa của chúng có hơi khác nhau.

Chia xẻ” – “chia” mang nghĩ là làm nhỏ ra thành từng phần từ một chỉnh thể, trong khi đó “xẻ” nghĩa là chia, bổ, cắt cho rời ra theo chiều dọc, không dính liền nhau nữa, hay có nghĩa là đào cái gì cho thông, thoát (VD: xẻ rãnh thoát nước).

Bởi vậy, có thể nói, hai từ “chia sẻ” và “chia xẻ” này cùng là động từ, có nghĩa gần giống nhau nhưng cách dùng từ khác nhau. Tùy vào trường hợp để chọn cho đúng nhé!

2. Giả thuyết hay giả thiết

Có người nhất quyết cho rằng chỉ có “giả thuyết” mới đúng và được dùng trong mọi hoàn cảnh. Nhưng kết quả lại cho thấy cả 2 từ đều có thể dùng được trong những trường hợp khác nhau.

Cụ thể, “giả thuyết” được sử dụng trong trường hợp nêu luận điểm mới trong khoa học để giải thích một hiện tượng tự nhiên nào đó và tạm được chấp nhận, chưa được kiểm nghiệm, kiểm chứng.

Trong khi đó, “giả thiết” được dùng để chỉ điều cho trước trong một định lý hay một bài toán để căn cứ vào đó mà suy ra kết luận của định lý hay cách để giải một bài toán.

Hoặc theo một định nghĩa khác được nhắc đến trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê như sau: “giả thiết” – điều coi như là có thật, nêu ra làm căn cứ để phân tích, suy luận, giả định. Bởi vậy, hai từ “giả thiết” và “giả thuyết” đều đúng, chỉ là bạn nên chọn từ thật đúng trong mỗi trường hợp mà thôi.

3. Độc giả hay đọc giả

Chính xác “độc giả” là từ Hán Việt gồm hai chữ gốc Hán: “độc” mang ý nghĩa “đọc” hay “học” và “giả” mang ý nghĩa “người”. Khi hai chữ đó được kết hợp với nhau, từ “độc giả” có nghĩa là “người đọc”.

Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê , cũng có định nghĩa từ “độc giả” – đó là người đọc sách báo, trong quan hệ với tác giả, nhà xuất bản, cơ quan báo chí, thư viện.

Trong khi đó, từ “đọc giả” được một số người sử dụng với nghĩa “người đọc” hay “bạn đọc” – bao gồm “đọc” là một từ thuần Việt và “giả” là một chữ Hán Việt. Ghép 2 từ lại với nhau là một sự không chính xác.

Bởi vậy có thể khẳng định rằng, “độc giả” mới là từ đúng.

4. Chín mùi hay chín muồi

Theo định nghĩa của Hoàng Phê – trong Từ điển Tiếng Việt 2000 (trang 161) có đề cập “chín muồi” là (quả cây) rất chín, đạt đến độ ngon nhất, đạt đến độ phát triển đầy đủ nhất, để có thể chuyển giai đoạn hoặc trạng thái. (VD: Điều kiện để chín muồi).

Nhưng cũng có rất ít từ điển đề cập đến từ “chín mùi”. Ngay cả từ điển của Nguyễn Kim Thản (2005) cũng chỉ nêu “chín muồi” là…. chín mùi như một cách nói tắt.

Bởi vậy, có thể khẳng định, từ đúng ở đây phải là “chín muồi”. Nhớ sử dụng đúng bạn nhé!

5. Tựu chung hay tựu trung

Từ đúng ở đây là “tựu trung”. Tuy nhiên không ít người sử dụng “tựu chung” với ý nghĩa từ “chung” ở đây giống với cách dùng trong từ “chung quy”.

Thật ra, “tựu trung” – “tựu” có nghĩa là tới (tề tựu); trung: là ở giữa, trong, bên trong.

“Tựu trung” có nghĩa là tóm lại, biểu thị điều sắp nêu ra là cái chung, cái chính trong những điều vừa nói trên.

Ví dụ: Mỗi người nói một kiểu nhưng tựu trung đều tán thành cả.

6. Vô hình chung hay vô hình trung

Không ít người thường dùng từ “vô hình chung” thay cho từ “vô hình trung” bởi nghĩ từ “chung” có nghĩa là chung quy và phát âm nghe quen miệng hơn, lâu dần thành thói quen không bỏ được, nhưng cách hiểu này không đúng.

Theo nghĩa Hán Việt, “vô hình trung” có nghĩa là “trong cái vô hình”. Theo Từ điển Tiếng Việt “vô hình trung”: tuy không có chủ định, không cố ý nhưng tự nhiên lại là (tạo ra, gây ra việc nói đến). Ví dụ: “Anh không nói gì, vô hình trung đã làm hại nó”.

Không có từ điển nào đề cập đến định nghĩa của từ “vô hình chung” cả.

Vì thế, “vô hình trung” là từ đúng; còn “vô hình chung” là sai.

7. Nhậm chức hay nhận chức

Theo nghĩa Hán Việt, “nhậm” trong từ “nhậm chức” là gánh vác công vụ, nhiệm vụ; “chức” là chức trách, việc quan, bổn phận. “Nhậm chức” là giữ chức vụ, gánh vác, đảm đương chức vụ do cấp trên giao phó, hiểu đơn giản, cấp trên bổ nhiệm, cấp dưới nhậm chức.

Trong khi đó, từ “nhận chức” trong nghĩa Hán Nôm thì “nhận” là tiếp đón, chịu lấy, lĩnh lấy; nên “nhận chức” là nhận chức vụ, nhưng không diễn tả được trách nhiệm với chức vụ đó.

Theo từ điển Hán Nôm, hay Hán Việt thì từ “nhận chức” đều không có nghĩa diễn tả được trách nhiệm đối với chức vụ.

Do đó, từ đúng phải là “nhậm chức”.

8. Chẩn đoán hay chuẩn đoán

“Chẩn đoán” – “chẩn” có nghĩa là xác định, phân biệt dựa theo những triệu chứng, dấu hiệu có sẵn; “đoán” có nghĩa là dựa vào cái có sẵn, đã thấy, đã biết để tìm cách suy ra điều chủ yếu còn chưa rõ hoặc chưa xảy ra.

Như vậy, “chẩn đoán” có nghĩa là xác định bệnh, dựa theo triệu chứng và kết quả xét nghiệm (theo Từ điển Tiếng Việt). VD: Chẩn đoán bệnh có đúng thì điều trị mới có hiệu quả.

Trong khi đó, “chuẩn” trong từ “chuẩn đoán” lại không hề mang nghĩa như vậy. Từ “chuẩn” chỉ có nghĩa là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, hướng theo đó mà làm đúng; hay là cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc theo thói quen trong xã hội mà thôi.

Vì vậy, “chẩn đoán” mới là từ đúng.

9. Tham quan hay thăm quan

Nhiều người cho rằng, “tham quan” hay “thăm quan” giống nhau về nghĩa nên có thể sử dụng xen lẫn được. Nhưng sự thật là chỉ có 1 từ đúng thôi – và đó là “tham quan“. Thử phân tách nghĩa các từ ra nhé!

Từ “thăm quan” được gắn nghĩa từ “thăm” – đến nơi nào đó bày tỏ sự quan tâm, hỏi han (đi thăm người ốm) hay xem xét để biết tình hình (thăm trường, lớp)… với từ “quan” – quan sát.

Trong khi từ “tham quan” (động từ) – theo gốc Hán thì “tham” có nghĩa là thêm vào; “quan” là quan sát, nhìn nhận. Do đó, “tham quan” nghĩa là đi tận nơi để quan sát, mở rộng hiểu biết và học hỏi kinh nghiệm. Tuy nhiên, từ này đồng âm khác nghĩa với từ “tham quan” (danh từ) chỉ viên quan có tính tham lam.

Bởi vậy, từ “tham quan” mới là từ chính xác.

10. Sát nhập hay sáp nhập

Nhiều người sử dụng 2 từ với chức năng như nhau. Nguồn gốc của 2 từ “sát nhập” và “sáp nhập” bắt nguồn từ “sáp nhập”- một từ ngoại lai.  Theo đó, “Sáp” có nghĩa là cắm vào, cài vào; còn “Nhập” nghĩa là vào, tham gia vào, đưa vào. “Sáp nhập” là nhập chung lại, gộp chung lại làm một. (Ví dụ: Sáp nhập ba xã làm một/ Công ty A sáp nhập vào công ty B).

Với từ “sát nhập”, từ “sát” là từ biến âm, biến thể dân gian của từ “sáp” mà ra. Từ “sát” trong tiếng Việt có nghĩa phái sinh từ từ “sáp”.

Ngoài nghĩa gốc là cắm vào, cài vào thì còn có nghĩa là liền ngay bên cạnh, xích gần lại đến mức không còn khoảng cách. Đứng trên quan điểm đồng đại, nhiều người sử dụng hai từ “sáp nhập” và “sát nhập” y như nhau. Một vài cuốn từ điển tiếng Việt đề cập đồng thời hai từ “sáp nhập” và “sát nhập” với nghĩa tương tự nhau.

Tuy nhiên, theo ý kiến của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quận – Trưởng Bộ môn Hán Nôm Khoa Văn học và khoa Ngôn ngữ – trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân Văn thì không nên sử dụng hai từ này giống nhau bởi nó không thật hợp lý.

Từ “sát” – tức là cạnh đến mức không còn khoảng cách, còn “sáp” nghĩa là cắm vào, cài vào; nếu sử dụng chung, nghĩa gốc của từ “sáp” không còn, từ đó, nghĩa của từ đã bị thay đổi.

 

Ads

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *